Lịch sử Brom

Brom được hai nhà hóa học Antoine Balard[3]Carl Jacob Löwig[4] phát hiện độc lập với nhau năm 1825 và 1826[5].

Balard tìm thấy các muối bromua trong tro của tảo biển từ các đầm lầy nước mặnMontpellier năm 1826. Tảo biển được sử dụng để sản xuất iốt, nhưng cũng chứa brom. Balard chưng cất brom từ dung dịch của tro tảo biển được bão hòa bằng clo. Các tính chất của chất thu được là tương tự như của chất trung gian giữa clo và iốt, với các kết quả này ông cố gắng để chứng minh chất đó là monoclorua iot (ICl), nhưng sau khi thất bại trong việc chứng minh điều đó ông đã tin rằng mình đã tìm ra một nguyên tố mới và đặt tên nó là muride, có nguồn gốc từ tiếng Latinh muria để chỉ nước mặn[3].

Carl Jacob Löwig đã cô lập brom từ suối nước khoáng tại quê hương ông ở thị trấn Bad Kreuznach năm 1825. Löwig sử dụng dung dịch của muối khoáng này được bão hòa bằng clo và tách brom bằng dietylête. Sau khi cho bốc hơi ete thì một chất lỏng màu nâu còn đọng lại. Với chất lỏng này như một mẫu vật cho công việc của mình ông đã xin một vị trí tại phòng thí nghiệm của Leopold Gmelin tại Heidelberg. Sự công bố các kết quả bị trì hoãn và Balard đã công bố các kết quả của mình trước[4].

Sau khi các nhà hóa học Pháp là Louis Nicolas Vauquelin, Louis Jacques ThénardJoseph-Louis Gay-Lussac đã xác nhận các thực nghiệm của dược sĩ trẻ Balard, các kết quả được thể hiện trong bài thuyết trình của Académie des Sciences và công bố trong Annales de Chimie et Physique[6]. Trong bài công bố của mình Balard thông báo rằng ông đổi tên từ muride thành brome theo đề nghị của M. Anglada. Các nguồn khác lại cho rằng nhà hóa học và nhà vật lý Pháp Joseph-Louis Gay-Lussac đã gợi ý tên gọi brome do mùi đặc trưng của hơi của chất này[7]. Brom đã không được sản xuất ở lượng cần thiết cho tới tận năm 1860.

Sử dụng thương mại đầu tiên, ngoài các ứng dụng nhỏ trong y học, là sử dụng brom trong daguerreotype. Năm 1840 người ta phát hiện ra rằng brom có một số ưu thế so với hơi iốt được sử dụng trước đó để tạo ra lớp halua bạc nhạy sáng trong daguerreotype[8].

Bromua kalibromua natri từng được sử dụng như là thuốc chống co giật và giảm đau vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, cho tới khi chúng dần dần bị thay thế bởi chloral hydrat và sau đó là bằng các barbiturat[9].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Brom http://www.britannica.com/EBchecked/topic/80822 http://revistas.mes.edu.cu:9900/EDUNIV/03-Revistas... http://books.google.de/books?id=A-M4AAAAMAAJ http://catalogue.bnf.fr/ark:/12148/cb12166058m http://data.bnf.fr/ark:/12148/cb12166058m http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k907222/f920.... http://www-d0.fnal.gov/hardware/cal/lvps_info/engi... http://id.loc.gov/authorities/subjects/sh85017053 http://d-nb.info/gnd/4146635-4 http://id.ndl.go.jp/auth/ndlna/00572452